Theo Báo cáo giám sát GDP được công bố trong một nghiên cứu hàng tháng do Viện Kinh tế Brazil (Ibre) thực hiện, nền kinh tế lớn nhất Nam Mỹ bắt đầu ghi nhận những dấu hiệu suy thoái và “một quá trình giảm tốc rộng rãi” trong hai tháng đầu năm 2025, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế quốc tế có nhiều bất ổn kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nhậm chức và mức lãi suất cao ở Brazil.
Theo báo cáo của Văn phòng Chính sách Kinh tế thuộc Bộ Tài chính Brazil (SPE), nền kinh tế nước này tăng trưởng 0,3% từ tháng 12 năm 2024 đến tháng 1 năm nay. Từ tháng 11 đến tháng 12, mức tăng trưởng là 0,5%. Dự báo kết thúc năm 2025 tăng trưởng GDP đạt 2,3%. Theo Bộ này, việc điều chỉnh giảm dự báo GDP năm 2025 chủ yếu dựa trên diễn biến lãi suất tăng, hoạt động kinh tế chậm lại trong quý IV/2024 và kịch bản kinh tế bên ngoài.
Đối với ngành công nghiệp, dự báo tăng trưởng năm 2025 được điều chỉnh từ 2,5% xuống 2,2% do ngành sản xuất và xây dựng dự kiến sẽ chậm lại, mặc dù ngành khai thác phục hồi, chủ yếu là do các giàn khoan dầu mới đi vào hoạt động.
Đối với dịch vụ, tốc độ tăng trưởng dự báo đã giảm từ 2,1% xuống 1,9%, chủ yếu là do sự chậm lại trong việc tạo ra việc làm mới và việc giảm tỷ lệ ưu đãi tín dụng do mức lãi suất cao.
Đối với hoạt động nông nghiệp, dự báo tăng trưởng được duy trì ở mức 6%, có tính đến dự báo thu hoạch, dữ liệu giết mổ gia súc sơ bộ trong quý IV năm 2024 và sự cải thiện về tình hình khí hậu.
Dự báo kết thúc năm 2025 lạm phát đạt khoảng 4,8%, chủ yếu do tác động của tỷ giá hối đoái tuy nhiên nhờ những sản lượng thu hoạch cao từ nông nghiệp dự kiến lạm phát lương thực sẽ suy yếu. Giá thịt, gạo, đậu, thực phẩm tươi sống và các sản phẩm từ đậu nành có xu hướng giảm từ nay cho đến cuối năm. Mặt khác, giá lúa mì và các sản phẩm từ sữa có xu hướng tăng do ảnh hưởng bởi vụ thu hoạch thấp vào năm 2024”.
Về triển vọng tài khóa, chiến lược chính sách tài khóa năm 2025 của Chính phủ Brazil là tiếp tục quá trình tìm kiếm tính bền vững về tài khóa, tập trung vào việc đạt được mục tiêu kết quả chính, thực hiện các biện pháp tăng cường khuôn khổ tài khóa và củng cố các điều kiện để ổn định tăng trưởng nợ.
Sản xuất nông nghiệp
Trong tương lại gần, khả năng Brazil không sản xuất đủ lương thực cho đất nước mình và thế giới hoàn toàn có thể xảy ra. Một trong những nguyên nhân là việc trông trọt các loại nông sản – thực phẩm đang nhường chỗ cho đậu nành và ngô. Tổng diện tích trồng trọt ở Brazil đã tăng từ 65,4 triệu ha vào năm 2010 lên 96,3 triệu ha vào năm 2023 nhưng sự mở rộng này chủ yếu là do đậu nành và ngô. Nếu không có hai loại cây trồng này nhằm mục đích xuất khẩu, diện tích trồng trọt vẫn ổn định, đạt 29,1 triệu ha vào năm 2010 và 29,3 triệu ha vào năm 2023. Sản lượng đậu bình quân đầu người ở Brazil đã giảm 20%; và gạo là 22% khi so sánh năm 2024 với năm 2012. “Diện tích trồng lúa ở Brazil đã giảm từ 2,8 triệu ha vào năm 2010 còn 1,6 triệu ha vào năm 2024, điều này củng cố quan điểm cho rằng cây lương thực đang nhường chỗ cho cây trồng xuất khẩu, đặc biệt là đậu nành và ngô”.
Sản lượng bình quân đầu người của hầu hết các loại trái cây chính ở Brazil đã giảm từ đầu thập kỷ trước. Trong trường hợp của chuối, mức giảm này là 10%; trong táo là 5,6%; ở cam, 20% (bị ảnh hưởng bởi bệnh xanh lá cây, một loại sâu bệnh); trong đu đủ, 40%; và trong quýt là 8%. Ngoại lệ duy nhất là nho, với mức tăng 9%.
Ibre nêu chi tiết mức tăng cụ thể về giá thực phẩm tại Brazil từ năm 2012 đến năm 2024 như trái cây (tăng 299%), rau và rau xanh (246%), ngũ cốc, đậu và hạt có dầu (217%), củ, rễ và đậu (188%), trong khi tỷ lệ lạm phát chung là 109%. Biến đổi khí hậu cũng là nguyên nhân gây ra sự mất cân bằng giữa lạm phát lương thực và chỉ số chung, gây ra sự gián đoạn ngày càng tăng trong nguồn cung hàng hóa (đối với hàng hóa được giao dịch theo giá quốc tế) và các sản phẩm thực phẩm.
Lãi suất
Để đạt được mục tiêu lạm phát, Ngân hàng Trung ương sử dụng công cụ chính là lãi suất cơ bản Selic, được Ủy ban Chính sách Tiền tệ (Copom) ấn định ở mức 13,25% mỗi năm. Dự báo là 15% năm 2025 lãi suất cơ bản Selic đạt mức 15% và năm 2026 sẽ duy trì ở mức 12,5%. Đối với năm 2027 và 2028, dự kiến tỷ lệ này sẽ lần lượt là 10,5% và 10%.
Vào cuối tháng 1, Copom đã tăng lãi suất Selic thêm 1 điểm phần trăm, với lý do là quyết định này phù hợp với chiến lược đưa lạm phát hội tụ quanh mục tiêu, đồng thời nhấn mạnh rằng giá thực phẩm đã tăng đáng kể do nhiều yếu tố, trong đó có hạn hán kéo dài suốt năm ngoái và giá thịt tăng (cũng bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thịt bò)
Về hàng hóa sản xuất, Ủy ban chỉ ra rằng sự tăng giá gần đây của đồng đô la đang gây áp lực lên giá cả và biên lợi nhuận, cho thấy các thành phần này sẽ tăng nhiều hơn trong những tháng tới, khiến viễn cảnh lạm phát trở nên bất lợi hơn, đòi hỏi chính sách kinh tế thắt chặt. Kịch bản bất lợi nhất đối với lạm phát hướng tới mục tiêu 3% vào năm 2025, với phạm vi dung sai từ 1,5% đến 4,5%.
Dự báo kết thúc năm 2025, tỷ giá hối đoái một đô-la Mỹ đổi được R$6,00, tiếp tục duy trì cho tới hết năm 2026 và năm 2027 (ở mức 5,93 R$). Với đồng real mất giá, việc xuất khẩu sang các nước khác và thu được doanh thu bằng đô la khiến hoạt động của nhà sản xuất có lợi nhuận cao hơn, đồng thời gia tăng giá đầu vào đối với một số sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu như thuốc trừ sâu, phân bón, máy móc và thiết bị.
Kim ngạch thương mại với thế giới
Năm 2025, Kim ngạch xuất khẩu của Brazil dự kiến đạt từ 320 đến 360 tỷ đô la, trong khi kim ngạch nhập khẩu dự kiến đạt từ 260 đến 280 tỷ đô la. Bộ Phát triển, Công nghiệp, Thương mại và Dịch vụ (MDIC) ước tính thặng dư thương mại đạt từ 60 đến 80 tỷ đô la Mỹ vào năm 2025.
Kim ngạch nhập khẩu của Brazil có thể có xu hướng ổn định hoặc giảm nhẹ tùy thuộc vào diễn biến của nền kinh tế và giá hàng hóa. Hiện tại đang có dấu hiệu chững lại ngắn hạn do tác động của suy thoái kinh tế. Ở chiều ngược lại, sự phục hồi về giá và sản lượng đậu nành có thể thúc đẩy xuất khẩu.
Về xuất khẩu:
Tính đến tuần thứ 2 của tháng 3/2025, kết quả hoạt động của các ngành kinh tế Brazil như sau: Nông nghiệp tăng trưởng 44,0%, đạt tổng cộng 4,09 tỷ USD; tăng trưởng 15,6% trong ngành công nghiệp khai khoáng, đạt 2,99 tỷ USD và cuối cùng là tăng trưởng 31,4% trong ngành công nghiệp chế tạo, đạt 7,31 tỷ USD. Sự kết hợp của những kết quả này dẫn đến sự gia tăng tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tăng trưởng chủ yếu được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng giá trị trong xuất khẩu các sản phẩm sau: Ngô chưa xay, trừ ngô ngọt (265,5%), Cà phê chưa rang (166,4%) và Đậu nành (24,9%) trong Nông nghiệp; Quặng đồng và tinh quặng của chúng (147,3%), quặng niken và tinh quặng của chúng (153,3%) và dầu thô hoặc khoáng chất bitum, thô (19,2%) trong ngành khai thác; Thịt bò tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (89,9%), Cellulose (52,9%) và Dầu nhiên liệu từ khoáng chất dầu mỏ hoặc bitum (trừ dầu thô) (72,9%) trong Ngành sản xuất.
Ngược lại, mặc dù kết quả xuất khẩu tăng trưởng nhưng các sản phẩm sau ghi nhận giá trị giảm: Lúa mì và lúa mạch đen, chưa xay (-38,2%), Lúa mạch đen, yến mạch và các loại ngũ cốc khác, chưa xay (-97,9%) và Len và tóc thô (-19,9%) trong Nông nghiệp; Khoáng sản thô khác (-42,0%), Quặng sắt và quặng cô đặc (-1,0%) và Quặng kim loại quý và quặng cô đặc (-98,9%) trong ngành khai thác; Đường và mật mía (-34,0%), Sản phẩm bán thành phẩm, thỏi và các dạng sắt hoặc thép thô khác (-65,0%) và Máy bay và các thiết bị khác, bao gồm các bộ phận của chúng (-67,6%) trong Ngành sản xuất.
Về nhập khẩu:
Tính đến tuần thứ 2 của tháng 3/2025, tình hình nhập khẩu theo ngành kinh tế của Brazil như sau: Nông nghiệp tăng trưởng 52,2%, đạt tổng cộng 0,29 tỷ USD; ngành Công nghiệp khai khoáng giảm -20,0%, đạt 0,45 tỷ USD và cuối cùng là ngành Công nghiệp chế tạo tăng trưởng 19,8%, đạt 8,85 tỷ USD.
Một số sản phẩm ghi nhận tăng trưởng giá trị nhập khẩu gồm: Ngô chưa xay, trừ ngô ngọt (80,7%), Ca cao thô hoặc rang (1.909,0%) và Mủ cao su, cao su thiên nhiên, balata, gutta-percha, guayule, chicle và gôm tự nhiên (120,3%) trong Nông nghiệp; Đá, cát và sỏi (100,8%), Quặng kim loại cơ bản khác và quặng cô đặc (53,4%) và Dầu thô hoặc dầu khoáng bitum, thô (4,4%) trong ngành khai thác; Các loại thuốc khác, bao gồm thuốc thú y (75,2%), Động cơ và máy móc không dùng điện và các bộ phận của chúng (trừ động cơ piston và máy phát điện) (72,1%) và Vũ khí và đạn dược (263,7%) trong Ngành sản xuất.
Mặc dù kết quả nhập khẩu tăng trưởng, nhưng các sản phẩm sau lại giảm: Cá nguyên con, sống, chết hoặc ướp lạnh (-2,6%), Sản phẩm rau, tươi hoặc ướp lạnh (-18,7%) và Đậu nành (-94,4%) trong Nông nghiệp; Phân bón thô (trừ phân bón) (-22,9%), Than, kể cả dạng bột, nhưng không kết tụ (-53,7%) và Khí tự nhiên, hóa lỏng hoặc không (-97,6%) trong Ngành khai thác; Dầu nhiên liệu từ dầu mỏ hoặc khoáng chất bitum (trừ dầu thô) (-15,4%), Phân bón hoặc phân bón hóa học (trừ phân bón thô) (-8,3%) và Xe cơ giới để vận chuyển hàng hóa và mục đích sử dụng đặc biệt (-12,0%) trong Ngành sản xuất
Đối tác nhập khẩu chính: 05 đối tác hàng đầu về nhập khẩu của Brazil trong hai tháng đầu năm 2025 chiếm 54,09% tổng lượng nhập khẩu, dẫn đầu là Trung Quốc, tiếp theo là Hoa Kỳ, Argentina, Đức và Nhật Bản.
Trao đổi thương mại song phương với Việt Nam
Theo số liệu của Bộ Phát triển, Công nghiệp, Thương mại và Dịch vụ Brazil, năm 2025, cán cân thương mại giữa Brazil và Việt Nam tiếp tục ghi nhận thặng dư cho Brazil. Từ tháng 1 đến tháng 2 năm 2025, kim ngạch xuất khẩu của Brazil sang Việt Nam đạt 733,7 triệu đô la Mỹ, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2024. Nhập khẩu của Brazil từ Việt Nam là 631,9 triệu đô la Mỹ, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm 2024. Cán cân thương mại đạt thặng dư 101,8 triệu đô la Mỹ. Việt Nam tiếp tục là điểm đến lớn thứ năm cho xuất khẩu nông sản của Brazil.
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam, 2 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Brazil đạt 1,436 tỷ USD, giảm % so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Brazil đạt 388,56 tỷ USD, giảm 14,2%; nhập khẩu từ quốc gia Nam Mỹ này đạt 1,048 tỷ USD, giảm 1,5%.
Xuất khẩu của Việt Nam sang Brazil giảm đáng kể chủ yếu tới từ sụt giảm các mặt hàng sắt thép các loại (-73,8%), điện thoại các loại và linh kiện (-14,6%), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác (-37,6), phương tiện vận tải và phụ tùng (-28%). Các nhóm hàng này cũng là các nhóm hàng ghi nhận sụt giảm trong tổng cơ cấu nhập khẩu của Brazil. Mặt khác, các mặt hàng xuất khẩu phục vụ cho tiêu dùng trong nước mặc dù tỷ trọng kim ngạch còn nhỏ so với các nhóm hàng cơ khí và công nghiệp, tuy nhiên ghi nhận tăng trưởng tốt như hàng thủy sản (+36,8%), cao su (+56,48%), giày dép các loại (+49,2%), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (+10,6%).
Sụt giảm trong kim ngạch nhập khẩu từ Brazil chủ yếu tới từ mặt hàng ngô (-25,5%), đậu tương (-100%), thức ăn gia súc và nguyên liệu (-21%). Chỉ có mặt hàng bông nguyên liệu tiếp tục ghi nhận tăng trưởng tốt (+76,65%). Với việc Argentina năm nay được mùa trở lại, việc sụt giảm nhập khẩu một số sản phẩm nông sản từ Brazil đã được dự báo trước, do các công ty của Argentina thường xuất khẩu với quy mô vừa phải và phù hợp với nhu cầu thị trường Việt Nam hơn là Brazil.